Thứ Năm, 15 tháng 5, 2025

Danh sách đỏ

 

Dodo (danh pháp khoa họcRaphus cucullatus) là một loài chim không biết bay đặc hữu của đảo Mauritius ở phía đông MadagascarẤn Độ Dương. Dodo cùng với họ hàng gần nhất của chúng là loài Pezophaps solitaria tạo nên phân họ Raphinae của họ Columbidae và cả hai đều đã tuyệt chủng.

Đại bàng Haast (danh pháp khoa họcHarpagornis moorei) là một loài đại bàng khổng lồ thuộc họ Ưng đã từng sống trên đảo Nam của New Zealand. Đây là loài đại bàng lớn nhất được biết đến. Con mồi của nó bao gồm chủ yếu là các loài chim bay khổng lồ, đã không thể bảo vệ mình khỏi các lực tấn công và tốc độ của những con đại bàng, vào các thời điểm đạt 80 km/h.

Chuột núi Lào (danh pháp khoa họcLaonastes aenigmamus) là loài gặm nhấm sống ở miền Khammuane của Lào. Loài này được miêu tả lần đầu tiên năm 2005 trong một bài báo của Paulina Jenkins và một số người khác, họ nghĩ rằng động vật này có tính chất khác biệt với các loài gặm nhấm đang sống đến độ cần phải đặt nó vào một họ mới, gọi là Laonastidae.

Bạch quả (danh pháp khoa họcGinkgo biloba) là loài cây thân gỗ duy nhất còn sinh tồn trong chi Ginkgohọ Bạch quả. Bạch quả là ví dụ tốt nhất về hóa thạch sống, do bộ Ginkgoales đã không còn biết đến từ các hóa thạch kể từ sau thế Pliocen.

Cá chiên (danh pháp khoa họcBagarius bagarius) là một loài cá da trơn trong chi chi Cá chiên, tìm thấy trong các con sông lớn ở Nam Á và Đông Nam Á, cụ thể trong lưu vực sông Hằngsông Mê Kôngsông Chao Phraya; và có thông báo cho thấy nó có trong lưu vực các sông SalweenMae Klong và phần Thái Lan bán đảo.

Chim cánh cụt hoàng đế (danh pháp khoa họcAptenodytes forsteri) là một loài chim trong họ chim cánh cụt. Chúng là loại chim lớn nhất và nặng nhất trong số tất cả những loài chim cánh cụt sống và đặc hữu ở Châu Nam Cực. Chim cánh cụt hoàng đế nổi tiếng với những chuỗi hành trình của các con lớn mỗi năm để giao phối với nhau và nuôi con cái.

Cáo đảo (danh pháp khoa họcUrocyon littoralis) là một loài cáo nhỏ có mặt tại 6 trong 8 hòn đảo của quần đảo Channel và các vùng bờ biển lân cận California. Có 6 phân loài của cáo đảo, và mỗi phân loài sống trên một hòn đảo, phản ánh lịch sử tiến hóa của nó tại đây.

Cá sửu (danh pháp khoa họcBoesemania) là một loài cá nước ngọt trong chi Cá sửuhọ Cá lù đùbộ Cá vược. Đây là loài cá có giá trị kinh tế cao, là đối tượng của ngành đánh bắt thủy sản ở nhiều nước châu Á.

Thú mỏ vịt (danh pháp khoa họcOrnithorhynchus anatinus) là một loài động vật có vú bán thủy sinh đặc hữu miền đông Úc, bao gồm cả Tasmania. Cùng với bốn loài thú lông nhím, nó là một trong năm loài thú đơn huyệt còn tồn tại, những loài động vật có vú duy nhất đẻ trứng thay cho đẻ con.

Vẹt Cuba (danh pháp khoa họcAmazona leucocephala) là một loài vẹt kích thước trung bình chủ yếu có màu xanh lá được tìm thấy trong rừng và rừng khô của CubaBahamas và quần đảo Cayman tại vùng biển Caribbean.

Trĩ sao Việt Nam (danh pháp khoa họcRheinardia ocellata ocellata) là một trong hai phân loài của loài trĩ sao, phân loài kia là trĩ sao Mã Lai.

Vượn cáo nâu (danh pháp khoa họcEulemur fulvus) là một loài vượn cáo trong họ Vượn cáo. Nó được tìm thấy ở Madagascar và Mayotte.

Thỏ châu Âu (danh pháp khoa họcOryctolagus cuniculus) là một loài động vật có vú trong họ Thỏbộ Thỏ, được Linnaeus mô tả năm 1758. Chúng là một loài thỏ bản địa Tây Nam châu Âu được du nhập rộng rãi ở những nơi khác thường và gây ra hiệu ứng tàn phá đa dạng sinh học địa phương.

Báo gấm Đài Loan (danh pháp khoa họcNeofelis nebulosa brachyura) là một phân loài đã tuyệt chủng của loài báo gấm, phân bố ở Đài Loan và là loài mèo đặc hữu của đảo Đài Loan. Một phân loài báo châu Á đã tuyệt chủng. Chúng có vai trò quan trọng trong văn hóa của thổ dân Đài Loan là người Rukai, những người rất tự hào khi khoác lên người mình chiếc áo da báo gấm và họ tin rằng đó là linh hồn của tổ tiên.

Bồ câu xanh đốm (danh pháp khoa họcCaloenas maculata) là một loài chim bồ câu rất có thể đã tuyệt chủng. Nó lần đầu tiên được đề cập và mô tả vào năm 1783 bởi John Latham, người đã nhìn thấy hai mẫu vật không rõ nguồn gốc và một bức vẽ mô tả loài chim này. Ngày nay, loài này chỉ được biết đến từ một mẫu vật được lưu giữ tại Bảo tàng Thế giới, Liverpool.

Bò rừng Ấn Độ (danh pháp khoa họcBos primigenius namadicus) là một phân loài của bò rừng châu Âu đã tuyệt chủng. Đây được coi là tổ tiên của loài bò u mà chủ yếu được tìm thấy ở miền nam châu Á và đã được du nhập ở nhiều nơi khác trên thế giới, như châu Phi và Nam Mỹ.

Cá heo sông Dương Tử (danh pháp khoa họcLipotes vexillifer) là một loài cá heo sông đặc hữu, được phân bố tại khu vực hạ lưu sông Dương TửTrung Quốc.

Cá mập báo (danh pháp khoa học:Galeocerdo cuvier) là loài cá mập duy nhất thuộc chi Cá mập chồnhọ Cá mập mắt trắng. Loài cá này sống ở nhiều khu vực đại dương nhiệt đới và ôn đới khắp thế giới, đặc biệt là xung quanh các hòn đảo trung Thái Bình Dương. Loài cá này chuyên săn mồi vào ban đêm. Chúng có sọc vằn như hổ báo và sẽ phai đi khi chúng trưởng thành.

Rùa Hồ Gươm là một nhóm cá thể rùa lớn đã từng sống tại Hồ Gươm; con cuối cùng đã chết vào ngày 19 tháng 1 năm 2016. Rùa Hồ Gươm gắn liền với truyền thuyết Lê Lợi trả gươm thần Thuận Thiên cho thần rùa thần Kim Quy; ngay địa danh của hồ cũng căn cứ trên truyền tích đó vào đầu thời nhà Hậu Lê.

Tê giác trắng phương bắc (danh pháp khoa họcCeratotherium simum cottoni) là một trong hai phân loài của loài tê giác trắng. Trước đây tìm thấy ở một số nước trong khu vực Đông và Trung Phi phía nam sa mạc Sahara, nó được liệt kê Cực kỳ nguy cấp.

Linh dương sừng kiếm (danh pháp khoa họcOryx dammah) là một loài linh dương thuộc chi Oryx hiện nay đã tuyệt chủng trong tự nhiên. Loài này trước đây sinh sống khắp Bắc Phi. Có một lịch sử phân loại dài kể từ khi Lorenz Oken phát hiện ra chúng vào năm 1816.

Chó sói Bán đảo Kenai (danh pháp khoa họcCanis lupus alces) là một phân loài đã tuyệt chủng của sói xám, từng sống trên bán đảo Kenai, miền nam bang AlaskaHoa Kỳ.

Chó sói bình nguyên Bắc Mỹ (danh pháp khoa họcCanis lupus nubilus) là một phân loài sói xám đã tuyệt chủng. Loại sói này từng sinh sống trong khu vực trải dài khắp vùng Đại Bình nguyên Bắc Mỹ, từ miền nam Manitoba và Saskatchewan đến phía nam bang TexasHoa Kỳ. Phân loài sói này bị công nhận tuyệt chủng vào năm 1926.

Hươu sao (danh pháp khoa họcCervus nippon) là một loài hươu bản địa của nhiều vùng thuộc khu vực Đông Á và được du nhập đến nhiều nơi khác nhau của thế giới. Trước đây tìm thấy từ miền Bắc Việt Nam ở phía nam đến Viễn Nga ở phía bắc, hiện nay trên bờ vực tuyệt chủng trong tất cả các khu vực ngoại trừ Nhật Bản, nơi loài này có nhiều.

Gấu trúc (danh pháp khoa họcAiluropoda melanoleuca) là một loài gấu nguồn gốc tại Trung Quốc. Nó dễ dàng được nhận ra bởi các mảnh màu đen, lớn xung quanh mắt, trên tai, và tứ chi nó. Tuy thuộc về bộ Ăn Thịt, chế độ ăn của gấu trúc gồm hơn 99% tretrúc. Gấu trúc trong tự nhiên thỉnh thoảng ăn cỏ dại, thậm chí ăn thịt chim, gậm nhấm xác thối. Trong tình trạng giam cầm, gấu trúc ăn mật ong, trứng cá, lá cây, bụi cam hoặc chuối cùng với các loại thức ăn đặc biệt khác.

Đại bàng đầu trắng (danh pháp khoa họcHaliaeetus leucocephalus) là một loài chim săn mồi hàng đầu tại Bắc Mỹ. Đây là loài chim quốc gia và biểu tượng của Hoa Kỳ. Loài đại bàng biển này có hai phân loài được biết đến và hình thành một cặp loài với đại bàng đuôi trắng.

Bách vàng (danh pháp khoa họcCallitropsis vietnamensis) là một loài cây thân gỗ mới được phát hiện trong thời gian gần đây trong họ Hoàng đàn, có nguồn gốc ở khu vực huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang thuộc miền bắc Việt Nam.

Báo Ba Tư (danh pháp khoa họcPanthera pardus ciscaucasica) là một trong những phân loài báo có kích thước lớn nhất trong các loài báo hoa mai với trọng lượng cơ thể lên đến 90 kg, Báo Ba Tư từng được coi là quái vật ngự trị khu vực Tây Nam dãy núi Caucasus ở Nga và khu vực phía Nam biển Caspian.

Báo hoa mai Sri Lanka (danh pháp khoa họcPanthera pardus kotiya) là một phân loài báo hoa mai bản địa Sri Lanka. Được IUCN phân loại là loài nguy cấp IUCN, số lượng phân loài này được cho là đang suy giảm do nhiều mối đe dọa bao gồm săn bắn cho các cuộc xung đột thương mại và xung đột người-báo. Không có quần thể lớn hơn 250 cá thể.

Voọc Chà vá chân đỏ (danh pháp khoa họcPygathrix nemaeus) thuộc họ Khỉ Cựu thế giới, và là loài có màu sắc rực rỡ nhất trong số các loài linh trưởng.

Sói lửa (danh pháp khoa họcCuon alpinus) là một loài thú ăn thịt thuộc họ Chó, thành viên duy nhất của chi Cuon. Sói lửa là động vật sống theo bầy đàn đông đúc giống như chó hoang Châu phi và sói xám, khi đi theo bầy đàn thì sói lửa rất hung tợn và có phương pháp săn mồi tàn độc, đồng thời có thể gây ra nổi hiểm nguy cho cả các mãnh thú khác như hổ hay báo và cả gấu.

Gấu trúc đỏ (danh pháp khoa họcAilurus fulgens) là loài động vật có vú ăn cỏ, đặc biệt là ăn lá tre. Nó nhỉnh hơn mèo nhà một chút. Đây là loài đặc hữu của dãy núi Himalaya ở BhutanNam Trung QuốcẤn ĐộMyanmar và Lào.

Mèo cá (danh pháp khoa họcPrionailurus viverrinus) là một loài mèo hoang cỡ vừa thuộc chi Mèo báo trong họ Mèo. Mèo cá phân bố ở Nam Á và Đông Nam Á. Năm 2008, IUCN xếp loài này vào nhóm loài bị đe dọa do chúng chỉ tập trung phân bố chủ yếu ở khu vực ngập nước. Loài này được mô tả bởi Bennett vào năm 1833.

Hổ Đông Dương (danh pháp khoa họcPanthera tigris corbetti) là một phân loài hổ sống chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, được tìm thấy tại CampuchiaLàoMalaysiaMyanmarThái LanViệt Nam và Tây Nam Trung Quốc. Tên gọi "hổ Corbett" có nguồn gốc từ tên gọi khoa học của nó là Panthera tigris corbetti, và tên gọi này được đặt để ghi công Jim Corbett.

Mèo gấm (danh pháp khoa họcPardofelis marmorata) là một loài mèo rừng có bộ lông đẹp nhất trong họ hàng nhà mèo, thuộc chi Mèo gấm sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á. Mèo gấm có họ hàng gần với báo lửa, chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi Mèo gấm.

Thông nước (danh pháp khoa họcGlyptostrobus pensilis) là loài thực vật duy nhất còn tồn tại thuộc chi Glyptostrobus. Đây là loài đặc hữu của vùng cận nhiệt đới đông nam Trung Quốc, từ tây Phúc Kiến tới đông nam Vân Nam, và cũng hiện diện ở miền Nam Việt Nam.

Hoàng liên gai (danh pháp khoa họcBerberis julianae) là loài cây bụi thuộc họ Hoàng mộc. Đây là loài bản địa của vùng Hoa Trung, hiện được trồng ở nhiều nơi để làm cảnh.

Uyên ương (danh pháp khoa họcAix galericulata) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ. Chúng thường xuyên được thể hiện trong nghệ thuật phương Đông và được coi là biểu tượng của hạnh phúc và chung thủy trong hôn nhân.

Voọc mông trắng (danh pháp khoa họcTrachypithecus delacouri) là loài linh trưởng cỡ lớn thuộc họ Khỉ Cựu thế giới, bộ Linh trưởng, đặc hữu của Việt Nam. Tại Việt Nam, là loài đặc hữu quý hiếm, có tên trong "Sách Đỏ" của Việt Nam và thế giới; cần được bảo vệ. Đây là một trong năm loài linh trưởng đang bị đe dọa tuyệt chủng ở mức toàn cầu.

Triết bụng trắng (danh pháp khoa họcMustela nivalis) là loài nhỏ nhất trong họ Chồn, bản địa của ục địa Á-ÂuBắc Mỹ và Bắc Phi, sau đó đã di thực khắp thế giới.

Thỏ rừng (danh pháp khoa họcLepus sinensis) là loài thú thuộc họ Thỏ. Thỏ rừng ít được nghiên cứu nhưng giống như các loài thỏ rừng khác, chế độ ăn bao gồm cỏ và các vật liệu thực vật xanh khác, chồi, cành cây và vỏ cây.

Nai cà tông (danh pháp khoa họcRucervus eldii) là loài nai phân bố ở Đông Nam Á. Loài này được người phương tây phát hiện lần đầu ở Manipur thuộc Ấn Độ vào năm 1839.

Mèo ri (danh pháp khoa họcFelis chaus) là một loài mèo thuộc chi Mèo trong họ Mèo, sinh sống ở những vùng đất ngập nước như đầm lầyvùng duyên hải và ven sông với thảm thực vật dày đặc.

Lợn vòi (danh pháp khoa họcTapirus indicus) là loài thú có hình dáng giống lợn rừng, nhưng cỡ lớn hơn và chúng có cái mõm dài như cái vòi, khu vực phân bố tự nhiên của chúng chủ yếu trong các khu rừng mưa Đông Nam Á.

Công lục (danh pháp khoa họcPavo muticus) là một loài chim thuộc họ Trĩ được Linnaeus mô tả khoa học lần đầu năm 1766. Chim công sinh sống ở rừng nhiệt đới Đông Nam Á và phía nam Trung Quốc. Nó có mối quan hệ gần gũi với công lam ở Ấn Độ.

Cáo đỏ (danh pháp khoa họcVulpes vulpes) là loài lớn nhất chi Cáo, phân bố ở bán cầu bắc từ vòng cực bắc đến Bắc PhiTrung Mỹ và châu Á. Phạm vi sinh sống của nó tăng lên song song sự mở rộng của con người, khi du nhập du nhập tới Australia, chúng được xem là gây hại cho các loài chim và động vật có vú địa phương.

Người (danh pháp khoa họcHomo sapiens) là loài duy nhất còn sống của tông Người, thuộc lớp động vật có vú. Con người là một loài sinh vật có bộ não tiến hóa rất cao cho phép thực hiện các suy luận trừu tượng, ngôn ngữ và xem xét nội tâm. Điều trên kết hợp với một cơ thể đứng thẳng cho phép giải phóng hai chi trước khỏi việc di chuyển và được dùng vào việc cầm nắm, cho phép con người dùng nhiều công cụ hơn tất cả những loài khác.

Báo đốm châu Mỹ (danh pháp khoa họcPanthera onca) là một trong bốn loài lớn nhất của họ nhà Mèo bên cạnh sư tửhổ và báo hoa mai, là loài duy nhất trong số bốn loài này có nguồn gốc ở khu vực châu Mỹ. Phạm vi hiện tại của báo đốm kéo dài từ Tây Nam Hoa Kỳ và Mexico ở Bắc Mỹ, qua phần lớn Trung Mỹ, và phía nam đến Paraguay và miền bắc Argentina ở Nam Mỹ.

Sẻ nhà (danh pháp khoa họcPasser domesticus) là một loài chim cở nhỏ thuộc họ Sẻ, được tìm thấy trong hầu hết các nơi trên thế giới. Sẻ nhà có nơi sống gắn kết với nơi ở của con người, và có thể sống trong thành thị hoặc nông thôn.

Bồ câu viễn khách (danh pháp khoa họcEctopistes migratorius) là một loài chim từng sống phổ biến ở Bắc Mỹ. Chúng thuộc chi Ectopistes, là một chi chim đã tuyệt chủng trong họ Bồ câu. Loài chim này di cư thành đàn với số lượng lớn — đôi khi có đến 2 tỉ con — có thể rộng đến 1,6 km và dài 500 km trên bầu trời.

Rau sắng (danh pháp khoa họcMelientha suavis) là loại rau với lá non, đọt mầm hoặc chùm hoa lấy từ cây sắng, loại cây thuộc bộ Đàn hương.

Cáo quần đảo Falkland (danh pháp khoa họcDusicyon australis) là một loài cáo bản địa quần đảo Falkland, là loài động vật có vú duy nhất bản địa của quần đảo này. Loài này đã tuyệt chủng trên đảo Tây Falkland năm 1876, là loài canidae đầu tiên được biết đến đã tuyệt chủng trong lịch sử.

Chó sói túi (danh pháp khoa họcThylacinus cynocephalus) là một loài thú ăn thịt có túi tiến hóa vào khoảng 4 triệu năm trước. Cá thể cuối cùng bị bắt sống vào năm 1933 ở Tasmania.

Trà hoa vàng (danh pháp khoa họcCamellia chrysantha) là một loài thực vật hạt kín trong họ Chè. Chè hoa vàng là loài cây quý hiếm, có nhiều giá trị để sử dụng như lấy gỗ, có thể làm cây trồng tầng dưới ở các đai rừng phòng hộ, trồng làm cây cảnh và làm đồ uống cao cấp, có tác dụng phòng và chống các bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường, u bướu.

Báo gấm (danh pháp khoa họcNeofelis nebulosa) là một loài thú họ Mèo cỡ trung bình, toàn thân dài 60 tới 110 cm và cân nặng khoảng 11 - 20 kg. Lông báo màu nâu hay hung, điểm "hoa" elip lớn, hình dạng không đều, gờ màu sẫm trông giống như đám mây: vì thế tên khoa học và một số tiếng nước ngoài đều nhắc tới "mây". Căn cứ trên cấu trúc hộp sọ, báo mây có đủ đặc tính khác biệt là thành viên duy nhất của chi này. Đây là loài đang có nguy cơ tuyệt chủng.

Khỉ mốc (danh pháp khoa họcMacaca assamensis) là loài khỉ sống ở khu vực rộng từ Nam Á đến Đông Nam Á, bao gồm Ấn ĐộBangladeshBhutanNepalViệt NamThái Lan và miền nam Trung Quốc. Khỉ mốc là loài kiếm ăn ban ngày. Chúng sống tại các khu rừng núi đá và rừng lá bán rụng. Tại một số khu vực, khỉ mốc bị đe dọa do môi trường sống bị phá hủy.

Sư tử (danh pháp khoa họcPanthera leo) là một trong những đại miêu trong họ Mèo và là một loài của chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này ở châu Phi đã bị sụt giảm khoảng 43% từ những năm đầu thập niên 1990.

Sư tử châu Á (danh pháp khoa họcPanthera leo persica) là một phân loài sư tử sống ở Ấn Độ. Phạm vi phân bố hiện tại của chúng được giới hạn ở vườn quốc gia Gir và vùng xung quanh ở bang Gujarat của Ấn Độ. Sư tử châu Á được mô tả lần đầu tiên vào năm 1826 bởi nhà động vật học người Áo Johann N. Meyer.

Bò rừng Ấn Độ (danh pháp khoa họcBos primigenius namadicus) là một phân loài của bò rừng châu Âu đã tuyệt chủng. Đây được coi là tổ tiên của loài bò u mà chủ yếu được tìm thấy ở miền nam châu Á và đã được du nhập ở nhiều nơi khác trên thế giới, như châu Phi và Nam Mỹ.

An ca lớn (danh pháp khoa họcPinguinus impennis) là một loài chim trong họ Alcidae. An ca lớn là một loài an ca lớn, không bay đã bị tuyệt chủng trong giữa thế kỷ 19. Đó là loài an ca hiện đại duy nhất trong chi Pinguinus, một nhóm các loài chim trước đây là bao gồm một loài an ca khổng lồ nữa có thể bay ở khu vực Đại Tây Dương.

Bồ câu lam Mauritius (danh pháp khoa họcAlectroenas nitidissima) là một loài bồ câu lục đã tuyệt chủng và đã là loài đặc hữu của đảo Mascarene của Mauritius trong Ấn Độ Dương phía đông Madagascar. Nó cũng có hai loài bà con đã tuyệt chủng từ Mascarenes và ba loài còn sống từ các đảo khác.

Đại bàng Haast (danh pháp khoa họcHarpagornis moorei) là một loài đại bàng khổng lồ thuộc họ Ưng đã từng sống trên đảo Nam của New Zealand. Đây là loài đại bàng lớn nhất được biết đến. Con mồi của nó bao gồm chủ yếu là các loài chim bay khổng lồ, đã không thể bảo vệ mình khỏi các lực tấn công và tốc độ của những con đại bàng, vào các thời điểm đạt 80 km/h.

Báo lửa (danh pháp khoa họcCatopuma temminckii) là một loài động vật ăn thịt thuộc họ Mèo có kích thước trung bình cân nặng 12 đến 16 kg, chủ yếu sống hoang dã. Trong điều kiện giam cầm báo lửa sống tới 20 năm, nhưng tuổi thọ trung bình của chúng trong tự nhiên thì có lẽ ngắn hơn nhiều. Lông của chúng chủ yếu có màu đỏ đậm như lông cáo hay nâu vàng, nhưng cũng có thể có màu đen hay xám.

Hươu sao Việt Nam (danh pháp khoa họcCervus nippon pseudaxis) là một phân loài của loài hươu sao. So sánh với những phân loài hươu sao khác, hươu sao Việt Nam có kích thước nhỏ hơn do môi trường nhiệt đới của chúng. Loài hươu này xưa kia có mặt miền bắc Việt Nam và có thể ở cả vùng tây nam Trung Quốc nhưng hiện đã tuyệt chủng trong hoang dã. Một số được nuôi và với kế hoạch sẽ đưa phụ loài này trả lại thiên nhiên.

Vẹt đuôi dài xanh (danh pháp khoa họcCyanopsitta spixii) là một loài chim trong họ Vẹt. Những con vẹt đuôi dài nguồn gốc ở MexicoTrung MỹNam Mỹ, và trước đây là vùng biển Caribe. Phần lớn các loài có liên quan đến môi trường rừng rậm, đặc biệt là rừng nhiệt đới, nhưng những loài khác thích môi trường sống như rừng hoặc thảo nguyên.

Rùa hộp ba vạch (danh pháp khoa họcCuora trifasciata) là một loài rùa hộp cỡ trung bình. Rùa hộp ba vạch sống ở ven suối, các vùng rừng núi và trung du, tới độ cao 1000m. Ban ngày rùa ẩn dưới những đống lá cây mục nát ven suối hay khe rãnh, ban đêm mới ra kiếm mồi.

Ác là (danh pháp khoa họcPica pica) là một loài chim định cư trong khu vực châu Âu, phần lớn châu Á, tây bắc châu Phi. Nó là một trong vài loài chim trong họ Quạ có tên gọi chung là ác là.

Báo hoa mai Đông Dương (danh pháp khoa họcPanthera pardus delacouri) là một phân loài của báo hoa mai bản địa của lục địa Đông Dương và phía nam Trung Quốc. Trên thế giới báo hoa mai Đông Dương có phân bố ở Đông Nam Trung Quốc, khu vực bán đảo Đông Dương như MianmaThái LanLàoCampuchiaViệt Nam, chúng còn thấy cả ở Ấn ĐộNepal.

Rắn ráo trâu (danh pháp khoa họcPtyas mucosa) là một loài rắn thuộc họ Rắn nước. Tổng chiều dài điển hình của cá thể trưởng thành khoảng 1,5 đến 1,95 m dù mẫu vật có chiều dài vượt 2 m không phổ biến lắm. Chiều dài kỷ lục của loài này đã được ghi nhận là 3,7 m, chỉ xếp thứ nhì sau một loài cùng chi Ptyas carinata trong số các loài rắn nước được biết đến.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét